Cảm giác là gì? Ví dụ về cảm giác? Các loại các giác là những loại nào? Các quy luật cơ bản của cảm giác là gì? Vai trò của cảm giá như thế nào? Tất cả những thắc mắc trên sẽ được chúng tôi chia sẻ, làm rõ qua nội dung bài viết này. Mời Quý vị theo dõi.
Cảm giác là gì?
Cảm giác là quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
Các loại cảm giác
Thứ nhất: Cảm giác bên ngoài
– Cảm giác nhìn (thị giác) cho chúng ta biết thuộc tính ánh sáng, mầu sắc, kích thước của đối tượng.
– Cảm giác nghe (thính giác) cho chúng ta biết những thuộc tính của âm thanh.
– Cảm giác ngửi (khứu giác) giúp con người nhận biết được mùi
– Cảm giác nếm (vị giác) giúp chúng ta nhận biết các loại vị: mặn, nhạt, đắng, cay…
– Cảm giác da: (mạc giác) cho ta biết về nhiệt độ, va chạm.
Thứ hai: Cảm giác bên trong
– Cảm giác vận động
– Cảm giác thăng bằng
– Cảm giác nội tạng.
Ví dụ về cảm giác
Khi bước ra ngoài đường ta có thể lắng nghe được tiếng xe cộ chạy ồn ào, nhìn thấy mọi vật đang chuyển động và cũng có thể cảm nhận được thế giới xung quanh ta đang ngày càng có những sự thay đổi mới.
Vậy nhờ đâu mà chúng ta có thể làm được điều đó ? Điều đó đặt ra cho chúng ta một câu hỏi lớn và chúng ta có thể tạm trả lời rằng đó là nhờ cảm giác. Mọi sự vật hiện tượng xung quanh ta tất cả đều được bộ não phản ánh lại nhờ vào cảm giác. Nhưng bộ não chúng ta chỉ mới phản ánh được từng thuộc tính bề ngoài của sự vật nhờ vào cảm giác.
Các quy luật cơ bản của cảm giác
Thứ nhất: Quy luật ngưỡng cảm giác (Quy luật về tính nhạy cảm)
Muốn có cảm giác thì phải có kích thích. Tuy nhiên cường độ kích thích phải đạt đến độ nhất định mới có thể gây ra được cảm giác. Mức độ đó được gọi là ngưỡng cảm giác.
Ngưỡng cảm giác là cường độ tối thiểu của kích thích để có thể gây ra được cảm giác.
Quy luật này còn gọi là quy luật về tính nhạy cảm bởi lẽ khi nói đến tính nhạy cảm cao thì điều đó có nghĩa là chỉ cần cường độ kích thích nhỏ nhưng đã có thể có cảm giác. Ví dụ, người ta nói một người nào đó có đôi tai rất thính có nghĩa là với âm thanh khá nhỏ, trong khi người khác chưa nghe thấy thì người đó đã nghe thấy. Như vậy độ nhạy cảm càng cao thì có nghĩa là ngưỡng cảm giác càng thấp.
Điểm đáng lưu ý ở đây là khi chúng ta nói đến ngưỡng cảm giác là chúng ta đề cập đến đại lượng vật lí, ví dụ như cường độ âm thanh, trọng lượng…còn khi ta nói độ nhạy cảm thì đó lại là “đại lượng” tâm lí. Do không đo được trực tiếp độ nhạy cảm của giác quan nên người ta phải đo nó một cách gián tiếp, thông qua việc đo các kích thích vật lí bên ngoài.
Thứ hai: Quy luật thích ứng cảm giác
Để phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích.
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích : khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm và ngược lại, độ nhạy cảm tăng khi cường độ kích thích giảm. Ví dụ, khi đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích mạnh), di vào chỗ tối (cường độ kích thích yếu) thì lúc đầu ta không nhìn thấy gì, sau đó dần dần mới nhìn rõ mọi vật. Điều này là do độ nhạy cảm tăng dần.
Tất cả các giác quan đều tuân theo quy luật thích ứng. Tuy nhiên mức độ khác nhau. Cảm giác thị giác có khả năng thích ứng cao. Trong bóng tối tuyệt đối, độ nhạy cảm với ánh sáng tăng gần 200.000 lần sau 40 phút. Bên cạnh đó, cảm giác đau hầu như không thích ứng.
Khả năng thích ứng của cảm giác cũng có thể được phát triển do rèn luyện. Ví dụ, công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 500 – 600C trong hàng giờ đồng hồ.
Thứ ba: Quy luật tác động lẫn nhau của cảm giác
Các cảm giác không tồn tại độc lập mà luôn tác động qua lại lẫn nhau. Do sự tác động qua lại như vậy, tính nhạy cảm của cảm giác bị thay đổi. Kích thích yếu lên cơ quan phân tích này lại làm tăng độ nhạy cảm của giác quan kia. Ngược lại, tác động mạnh lên giác quan này làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích khác.
Ví dụ, khi nghe nhạc, có ánh sáng mầu kèm theo thì các bản nhạc cũng được cảm nhận rõ nét hơn.
Vai trò của cảm giác
Cảm giác là hình thức phản ánh tâm lí đơn giản nhất, là mắt xích đầu tiên trong mối quan hệ con người – môi trường. Điều này thể hiện ở chỗ, cảm giác chỉ phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bên ngoài sự vật, hiện tượng. Các sự vật hiện tượng đó đang trực tiếp tác động vào các cơ quan cảm giác của chúng ta. Tức là sự vật đang hiện diện “ở đây” và “bây giờ” trong mối quan hệ với con người.
Cảm giác chính là các kênh thu nhận các loại thông tin phong phú và sinh động từ thế giới bên ngoài. cung cấp cho các quá trình nhận thức cao hơn sau nảy. Không có các nguyên vật liệu của cảm giác thì không thể có các quá trình nhận thức cao hơn. Lênin nói rằng: “Cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết”. Ngày nay các nhà Tâm lí học còn chỉ ra vai trò của từng loại cảm giác trong việc thu nhận thông tin từ thế giới khách quan:
– Vị giác: 1 %
– Xúc giác: 1,5%
– Khứu giác: 315%
– Thính giác: 11 %
– Thị giác: 83%
Cảm giác giữ cho não bộ ở trạng thái hoạt hóa, đảm bảo cho hoạt động của hệ thần kinh.
Cảm giác giúp con người cơ hội làm giàu tâm hồn, thưởng thức thế giới diệu kì xung quanh chúng ta.
Mong rằng bài viết đã cung cấp tới cho Quý độc giả những thông tin hữu ích, thú vị liên quan đến cảm giác là gì? Ví dụ về cảm giác. Qua đó, Quý vị hiểu thêm về một trong những quá trình nhận thức quan trọng trong đời sống con người.