Hệ thống pháp luật là gì
1. Hệ thống pháp luật là gì?
Hiện nay khái niệm về hệ thống pháp luật còn nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể:
– Quan điểm 1: Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành. Hệ thống pháp luật gồm hai bộ phận:
+ Hệ thống cấu trúc bên trong.
+ Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
– Quan điểm 2: Hệ thống pháp luật là cấu trúc bên trong của pháp luật, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại và thống nhất với nhau được phân thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được quy định bởi tính chất, cơ cấu các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
Theo Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội (Chủ biên: Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Văn Năm; Nguyễn Văn Động…) thì Hệ thống pháp luật theo nghĩa chung nhất được hiểu là một chỉnh thể các hiện tượng pháp luật (mà cốt lõi là các quy phạm pháp luật, được thể hiện trong các nguồn pháp luật) có sự liên kết, ràng buộc chặt chẽ, thống nhất với nhau, luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau để thực hiện việc điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội.
2. Đặc điểm của hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật có các đặc điểm cơ bản sau:
– Hệ thống pháp luật được hình thành một cách khách quan, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, các thành tố của hệ thống pháp luật là do chính các quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh xác lập, không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể ban hành pháp luật.
– Giữa các thành tố của hệ thống pháp luật luôn có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất và phù hợp với nhau. Ngoài ra còn có sự tác động qua lại lẫn nhau, phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Hệ thống pháp luật luôn là một tập hợp động, tính ổn định chỉ là tương đối, nó luôn vận động thay đổi, phát triển từ thời kỳ này sang thời kỳ khác cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh pháp luật và tiến trình phát triển của đất nước (được bổ sung thêm các quy định, các nguồn pháp luật mới, cũng có các hiện tượng pháp luật khác trong hệ thống và loại bỏ dần những quy định, nguồn pháp luật, hiện tượng pháp luật đã trở nên lạc hậu, không còn giá trị trong hệ thống).
3. Ý nghĩa của hệ thống pháp luật
– Đối với hoạt động xây dựng pháp luật:
+ Khi xây dựng pháp luật phải luôn ý thức được rằng các quy định pháp luật, các nguồn pháp luật luôn có mối liên hệ, ràng buộc, gắn bó chặt chẽ với nhau và phải luôn nhất. Do vậy, các tổ chức và cá nhân có thẩm quyền khi ban hành bất kì một quy định pháp luật nào cũng phải chú ý đến tính hệ thống của nó, tránh trường hợp quy định hay nguồn pháp luật mới ban hành mâu thuẫn, không thống nhất với các quy định hay nguồn pháp luật hiện hành hoặc mới ban hành.
+ Trong hoạt động xây dựng pháp luật thì nguồn pháp luật có hiệu lực pháp lý thấp không được ban hành trái với nguồn pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn và tất cả chúng phải phù hợp với Hiến pháp – luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất.
+ Việc ban hành quy định hay nguồn pháp luật phải chú ý đến khả năng thi hành nó trên thực tế, phải phù hợp với các thiết chế và cơ chế thực thi pháp luật hiện hành.
– Đối với hoạt động thực hiện pháp luật:
+ Xuất phát từ tính chất hệ thống của pháp luật đòi hỏi tất cả các quy định pháp luật hiện hành đều phải được thực hiện nghiêm minh, các hiện tượng pháp luật đều phải tối ưu.
+ Khi tiến hành thực hiện, áp dụng pháp luật phải ưu tiên các quy định của hiến pháp của các nguồn pháp luật có hiệu lực pháp luật cao hơn…
– Đối với hoạt động đào tạo luật và nghề luật:
Hệ thống pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động đào tạo nguồn nhân lực pháp luật và nghề luật. Ở hầu hết các quốc gia các khoa học pháp lí, nhất là khoa học pháp lí chuyên ngành thường hình thành trên cơ sở việc phân định các ngành luật, chế định pháp luật. Với mỗi ngành luật, chế định pháp luật độc lập thường có một khoa học pháp lí chuyên ngành tương ứng. Có thể nói hệ thống pháp luật là đối tượng nghiên cứu của hệ thống khoa học pháp lí.
4. Hệ thống pháp luật Việt Nam
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam tồn tại khá nhiều các ngành luật như ngành luật hiện pháp, ngành luật hành chính, ngành luật dân sự, ngành luật tố tụng dân sự, ngành luật hình sự, ngành luật tố tụng hình sự, ngành luật tài chính, ngành luật ngân hàng, ngành luật hôn nhân và gia đình.
Cùng với sự phát triển của đất nước, các quan hệ xã hội phát sinh ngày càng nhiều hơn, đa dạng, phức tạp hơn, đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật chặt chẽ, chính xác hơn, dẫn đến số lượng quy phạm pháp luật ngày một nhiều hơn và các ngành luật mới lần lượt được hình thành, phát triển như ngành luật lao động, ngành luật đất đai, ngành luật kinh tế, ngành luật môi trường,…
Một số ngành luật điển hình là:
* Luật hiến pháp: là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất gắn liền với việc tổ chức quyền lực nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
* Luật hành chính: là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
* Luật hình sự: là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm xác định những hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm đồng thời quy định các hình phạt đối với những người có hành vi phạm tội.
* Luật tố tụng hình sự: là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và quá trình kiểm sát việc điều tra, truy tố, xét xử những vụ án hình sự.
* Luật dân sự: là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá tiên tệ và một số quan hệ nhân thân trên nguyên tắc bình đẳng, độc lập của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó.
* Luật tố tụng dân sự: là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa toà án, viện kiểm sát, các đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra và giải quyết vụ án dân sự .
* Luật hôn nhân và gia đình: là hệ thống các quy định điều chỉnh những quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ.
* Luật kinh tế: là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức quản lí và thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và với các cơ quan quản lí nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường nhiều người chuyển sang nghiên cứu sâu hơn về các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động thương mại và xác định ngành luật thương mại là bộ phận chủ yếu của ngành luật kinh tế.
* Luật lao động: là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động (cá nhân, tổ chức).
* Luật đất đai: là hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc sở hữu, quản lí, bảo vệ và sử dụng đất.
Ngoài các ngành luật nói trên, còn một số ngành luật khác nữa như Luật bảo hiểm xã hội, Luật an sinh xã hội, Luật môi trường, Luật ngân hàng,…
Tài liệu tham khảo: Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội; Chủ biên: Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Văn Năm; Nguyễn Văn Động…