22 lượt xem

Thiểu năng tuần hoàn não là gì

1. ĐẠI CƯƠNG

1.1. Y học hiện đại

1.1.1. Khái niệm

Thiểu năng tuần hoàn não là danh từ để chỉ trạng thái bệnh lý với nhiều biểu hiện khác nhau nhưng đều có chung một cơ chế sinh bệnh là thiếu máu nuôi não.

Bệnh thường gặp ở lứa tuổi trung niên và người cao tuổi, đặc biệt là người lao động trí óc, nam bị nhiều hơn nữ.

1.1.2. Giải phẫu động mạch nuôi não

Não được nuôi bằng hai hệ động mạch là: động mạch cảnh trong và động mạch sống nền.

Hệ động mạch cảnh trong cung cấp máu cho khoảng 2/3 trước của bán cầu đại não; các ngành bên là động mạch mắt, màng não trước, động mạch não giữa, động mạch thông sau và thông trước. Các động mạch này lại chia thành hai ngành: ngàng nông tạo nên mạng lưới động mạch vỏ não, ngành sâu đi thẳng vào phần sâu của não và tới các cấu trúc của trung tâm. Hai hệ thống này hoạt động độc lập, không có nhánh nối thông; cho nên vùng ranh giới cung cấp máu kém hơn, dễ bị tổn thương nhũn não hoặc xuất huyết.

Hệ động mạch sống nền: động mạch đốt sống là ngành bên động mạch dưới đòn, chạy lên chui vào lỗ ngang C6, chạy qua lỗ ngang C6 – C1, phần này gọi là động mạch đốt sống cổ. Động mạch đi tới mỏm ngang C1, vòng qua C1 ra sau qua lỗ chẩm vào hộp sọ. Hai động mạch đốt sống hợp lại thành động mạch thân nền.

Động mạch đốt sống thân nền nuôi cho 1/3 sau bán cầu đại não và thân não. Hai nhánh động mạch não sau là hai nhánh cùng của động mạch đốt sống thân nền. Qua hai động mạch này, hệ động mạch đốt sống thân nền nối thông với hệ động mạch cảnh trong.

1.1.3. Nguyên nhân gây thiểu năng tuần hoàn não

– Nguyên nhân chính là tăng huyết áp, vữa xơ động mạch.

– Nguyên nhân rối loạn tuần hoàn chung: hạ huyết áp, bệnh tim mạch, dị tật bẩm sinh động mạch (gấp khúc), viêm tắc mạch, chấn thương.

– Nguyên nhân ngoài động mạch đốt sống: mỏ gai xương, hư xương sụn đốt sống cổ, viêm khớp cột sống cổ, hẹp lỗ mỏm ngang, thoát vị đĩa đệm cột sống cổ.

1.1.4. Lâm sàng

– Nhìn bên ngoài: kém nhanh nhẹn; kèm theo cơ nhẽo, niêm mạc khô, tóc rụng.

– Đau đầu: đau lan tỏa, có tính co thắt hoặc khu trú vùng chẩm gáy – trán. Đau tăng khi căng thẳng thần kinh; cảm giác nặng nề, u ám.

– Rối loạn cảm giác: đau tay chân và toàn thân, đau kẽ liên sườn, chuột rút, rối loạn thần kinh thực vật, cảm giác kiến bò, tê 1/2 người, tai ù như có tiếng ve kêu, nóng đầu.

– Thực thể: run các ngón tay khi đưa tay thẳng, nghiệm pháp Romberg (+).

– Những triệu chứng tiêu biểu:

+ Rối loạn giấc ngủ: mất ngủ, giảm chất lượng giấc ngủ.

+ Rối loạn sự chú ý: giảm sự chú ý, hay đãng trí hoặc chỉ chú ý đến một việc nào đó mà không còn phù hợp với hoàn cảnh lúc đó nữa.

+ Rối loạn tri giác: khả năng nghe giảm hơn, hẹp thị trường.

+ Rối loạn trí nhớ: giảm trí nhớ gần, khả năng sắp xếp lại theo trình tự giảm, ý nghĩ lộn xộn, nhầm.

+ Rối loạn xúc cảm: dễ cáu, dễ xúc động.

1.2. Y học cổ truyền

1.2.1. Khái niệm

Theo y học cổ truyền, các triệu chứng mô tả trong bệnh thiểu năng tuần hoàn não thuộc chứng huyễn vựng, đầu thống, hư lao, kiện vong…

1.2.2. Nguyên nhân gây bệnh

– Rối loạn tình chí, áp lực cuộc sống gia tăng: lo lắng, cáu giận, buồn bực làm can khí uất kết, khí uất hóa hỏa, can dương thượng cang, can phong nội động nhiễu loạn thanh khiếu gây nên huyễn vựng.

– Ăn uống không điều độ, thích ăn thức ăn béo ngọt, uống rượu: ăn uống không điều tiết làm rối loạn chức năng vận hóa thủy thấp của tỳ vị, thấp tụ thành đàm, đàm trọc ứ trệ bưng bít thanh dương gây nên huyễn vựng.

– Lao động quá sức hoặc ít vận động: thận là gốc của tiên thiên, tàng tinh sinh tủy; não là bể của tủy. Lao động quá sức, sinh hoạt tình dục quá độ, tuổi cao sức yếu… đều làm cho thận tinh hao hư, não tủy bất túc và gây nên bệnh.

– Khí huyết hao hư: bệnh lâu ngày làm khí huyết hao hư hoặc do rối loạn chức năng tỳ vị làm rối loạn nguồn hóa sinh huyết dịch gây nên khí huyết bất túc: khí hư làm thanh dương không thăng, huyết hư làm não không được nuôi dưỡng gây bệnh.

2. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ

2.1. Biện luận về cơ chế bệnh sinh

– Tỳ mất kiện vận làm đàm trọc nội sinh, can uất khí trệ làm huyết ứ nội đình, thận tinh hao hư làm não tủy không được nuôi dưỡng gây nên đàm ứ trợ trệ ở kinh lạc huyết mạch của não.

– Vị trí bệnh tại não và mạch; có quan hệ mật thiết đến các tạng tâm, can, tỳ, thận.

– Bệnh thuộc bản hư tiêu thực: bản hư là do tâm, can, tỳ, thận hư; tiêu thực là do đàm ứ nội sinh, khí huyết nghịch loạn gây nên.

2.2. Nguyên tắc điều trị

Bệnh thuộc bản hư tiêu thực cho nên điều trị theo nguyên tắc cấp trị tiêu, hoãn trị bản: trị tiêu dùng pháp hoạt huyết thông mạch; trị bản dùng pháp tư bổ can, tỳ, thận.

3. PHÂN THỂ ĐIỀU TRỊ

3.1. Phong dương thượng nhiễu

– Lâm sàng: hoa mắt, chóng mặt, ù tai, đầu căng đau, khi mệt mỏi hoặc cáu giận làm bệnh nặng thêm, chân tay run, ngủ kém, hay mê, đau lưng mỏi gối, sắc mặt hồng, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền tế sác.

– Pháp điều trị: bình can tiềm dương, tư dưỡng can thận.

– Bài thuốc: Thiên ma câu đằng ẩm.

Thiên ma 10g

Chi tử 10g

Đỗ trọng 10g

Câu đằng 12g

Hoàng cầm 10g

ích mẫu thảo 15g

Thạch quyết minh 20g

Ngưu tất 12g

Tang ký sinh 12g

Dạ giao đằng 12g

Phục thần 10g

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Thận thủy bất túc làm thủy không hàm mộc, âm không chế được dương nên can dương thiên thịnh, dương cang hóa phong, phong dương thượng nhiễu gây đau đầu chóng mặt; can dương thiên thịnh, hóa nhiệt nội nhiễu tâm thần nên thấy mất ngủ. Chứng bệnh này thuộc bản hư tiêu thực: dương cang hóa phong thượng nhiễu thuộc tiêu, can thận âm hư thuộc bản. Pháp điều trị dùng bình can tức phong, thanh nhiệt hoạt huyết, tư bổ can thận.

Trong bài thuốc trên thì thiên ma, câu đằng nhập can kinh, có tác dụng bình can tức phong. Thạch quyết minh vị mặn, tính bình; có tác dụng bình can tiềm dương, trừ nhiệt minh mục. Ngưu tất dẫn huyết hạ hành, khống chế can dương cang thịnh. Hoàng cầm, chi tử có tác dụng thanh nhiệt tiết hỏa. Ích mẫu có tác dụng hoạt huyết lợi thủy, bình giáng can dương. Đỗ trọng, tang ký sinh có tác dụng bổ can thận. Dạ giao đằng, phục thần có tác dụng ninh tâm an thần.

Nếu vị trường táo nhiệt gây táo bón thì gia đại hoàng 06g hoặc dùng bài Đương quy long hội hoàn để tăng cường thông phủ tiết nhiệt.

Nếu bệnh nặng, buồn nôn, chân tay tê run (tức là xu thế dương động hóa phong) thì gia trân châu mẫu 12g, sinh long cốt 30g, sinh mẫu lệ 20g, linh dương giác 15g, hải tảo 15g để trấn can tức phong.

Can dương thượng cang gây đau đầu, chóng mặt nặng thì gia trân châu mẫu 15g, bạch thược 15g.

Nếu âm hư (chất lưỡi hồng, ít rêu lưỡi, mạch huyền tế sác) thì gia sinh địa 12g, mạch môn 15g, huyền sâm 12g, hà thủ ô 30g, bạch thược 15g để tư bổ can thận âm.

Nếu can hỏa thăng bốc gây chóng mặt, đau đầu, ù tai, mắt đỏ, đắng miệng, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng khô thì gia long đởm thảo 12g, đan bì 12g, cúc hoa 10g, hạ khô thảo 12g để thanh can tả hỏa.

– Chú ý: bài thuốc trên không dùng trong can kinh thực hỏa hay thấp nhiệt gây đau đầu.

3.2. Can hỏa thăng bốc

– Lâm sàng: chóng mặt, đau đầu, mắt đỏ, đắng miệng, đau tức ngực sườn, bứt rứt, dễ cáu giận, ngủ kém hay mê, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng bẩn, mạch huyền sác.

– Pháp điều trị: thanh can tả hỏa, thanh lợi thấp nhiệt.

– Bài thuốc: Long đởm tả can thang.

Long đởm thảo 12g

Mộc thông 12g

Sinh cam thảo 06g

Hoàng cầm 10g

Đương quy 12g

Xa tiền tử 12g

Chi tử 10g

Sinh địa 12g

Sài hồ 12g

Trạch tả 20g

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Chứng bệnh này là do can đởm kinh thực hỏa thăng bốc hoặc thấp nhiệt theo kinh đưa xuống dưới gây nên.

Trong bài thuốc trên thì long đởm thảo có tính vị đắng lạnh; có tác dụng thanh can đởm thực hỏa, hạ tiết can đởm thấp nhiệt, tả hỏa trừ thấp. Hoàng cầm, chi tử có tính vị đắng lạnh vào kinh can đởm; có tác dụng tả hỏa giải độc, táo thấp thanh nhiệt. Thấp nhiệt ủng trệ hạ tiêu nên dùng xa tiền tử, mộc thông, trạch tả để thấm thấp tiết nhiệt, dẫn nhiệt hạ hành làm cho tà có đường thoát qua đường lợi tiểu nên thấp nhiệt không lưu lại được. Can là tạng tàng huyết, khi can kinh thực hỏa dễ thương âm huyết nên khi dùng các vị thuốc có tính vị khổ táo thấm lợi dễ làm thương âm, cho nên dùng sinh địa để dưỡng âm, đương quy bổ huyết để khứ tà mà không thương chính khí. Can chủ sơ tiết và sợ ức uất, hỏa tà nội uất làm can khí không thư thái. Khi dùng các vị thuốc có tính vị đắng lạnh giáng tiết thì dễ làm cho can đởm khí bị ức uất. Cho nên dùng vị thuốc sài hồ để sơ thông can đởm, đồng thời làm cho thuốc quy vào kinh can đởm. Cam thảo có tác dụng hòa hoãn tính vị đắng lạnh của các vị thuốc và điều hòa các vị.

Nếu can hỏa nhiễu động tâm thần gây mất ngủ, bứt rứt thì gia từ thạch 20g, long sỉ 15g, trân châu mẫu 20g để thanh can nhiệt và an tâm thần.

Nếu can phong nội động gây chi thể tê bì, run, đe dọa trúng phong thì gia toàn yết 10g, ngô công 12g, địa long 06g, bạch cương tàm 10g để bình can tức phong, thanh nhiệt chỉ kinh.

Nếu nhiệt thịnh thương âm thì gia tri mẫu 12g, quy bản 15g, hạn liên thảo 15g để dưỡng âm thanh nhiệt.

Chú ý: bài thuốc này có nhiều vị đắng lạnh, dễ gây tổn thương tỳ vị; cho nên khi đạt hiệu quả thì nên ngừng thuốc, không nên dùng kéo dài, những người tỳ vị hư nhược khi dùng phải thận trọng.

3.3. Đàm trọc ứ trệ thanh khiếu

– Lâm sàng: đầu nặng căng, nhìn đồ vật quay cuồng, tức ngực, buồn nôn, nôn ra nhiều đờm dãi, rêu lưỡi trắng nhớp, mạch huyền hoạt.

– Pháp điều trị: táo thấp khứ đàm, kiện tỳ hòa vị.

– Bài thuốc: Bán hạ bạch truật thiên ma thang.

Bán hạ

12g

Phục linh

12g

Trần bì

12g

Cam thảo

08g

Sinh khương

06g

Đại táo

03 quả

Thiên ma

12g

Bạch truật

15g

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Bài thuốc này dùng để điều trị các chứng phần lớn do cơ thể vốn dĩ tỳ hư không vận hóa được làm tụ thấp thành đàm, lại gặp phải can phong nội động gây nên. Can phong thượng nhiễu gây hoa mắt, chóng mặt, đau đầu. Đàm trọc nhiễu loạn phía trên cũng gây đau đầu và chóng mặt. Nếu can phong thượng nhiễu, dẫn động đàm trọc đưa lên trên làm cho kinh mạch khí huyết vùng đầu lưu thông kém thì càng dễ gây nên đau đầu và chóng mặt. Đàm trọc trở trệ vùng ngực bụng nên thấy đầy tức ngực, buồn nôn, rêu lưỡi trắng, mạch huyền hoạt là chứng can phong hiệp đàm. Chứng bệnh này thuộc bản hư tiêu thực, trong đó thì can phong hiệp đàm là tiêu, tỳ hư không vận hóa là bản. Điều trị nên bình can tức phong tiêu đàm, kiện tỳ trừ thấp hòa trung.

Bài thuốc trên được cấu tạo từ bài Nhị trần thang, bỏ ô mai và gia thiên ma, bạch truật, đại táo. Trong bài thuốc này thì bán hạ có tác dụng táo thấp hóa đàm, giáng nghịch hòa vị. Thiên ma có tác dụng bình can tiềm dương để tức can phong. Vì tỳ là nguồn sinh đàm cho nên dùng bạch truật có tác dụng kiện tỳ táo thấp; phục linh có tác dụng kiện tỳ lợi thấp làm cho thấp khứ đàm tiêu; trần bì có tác dụng lý khí hóa đàm, phối hợp với bán hạ để giáng nghịch hòa vị làm cho đàm tiêu trọc giáng. Sinh khương, đại táo có tác dụng hòa vị ích tỳ, điều hòa doanh vệ; cam thảo có tác dụng kiện tỳ, điều hòa vị thuốc.

Nếu phong đàm mà nặng gây đau đầu và chóng mặt nhiều thì gia cương tàm 12g, đởm nam tinh 10g.

Nếu can kinh uất nhiệt gây mắt đỏ, miệng đắng thì gia cúc hoa 10g, hạ khô thảo 12g.

Nếu buồn nôn nhiều thì gia đại giả thạch 15g, trúc nhự 12g để hòa vị giáng nghịch cầm nôn.

Nếu bụng đầy, ăn kém thì gia bạch đậu khấu 08g, sa nhân 10g để lý khí hóa thấp kiện tỳ.

Nếu chân tay cảm thấy nặng nề, rêu lưỡi nhớp thì gia hoắc hương 12g, thạch xương bồ 12g để tỉnh tỳ hóa thấp.

Nếu ù tai, nghe kém thì gia thông bạch 12g, uất kim 10g, thạch xương bồ 12g để thông dương khai khiếu.

Chú ý: không dùng bài này trong chứng đau đầu và chóng mặt do âm hư dương cang, khí huyết bất túc.

3.4. Khí huyết lưỡng hư

– Lâm sàng: hoa mắt, chóng mặt, khi vận động bệnh nặng thêm, khi mệt mỏi bệnh lại phát sinh, sắc mặt trắng, tinh thần uể oải, hồi hộp trống ngực, mất ngủ, chất lưỡi nhạt, rêu trắng mỏng, mạch tế nhược.

– Pháp điều trị: bổ ích khí huyết, kiện vận tỳ vị.

– Bài thuốc: Quy tỳ thang.

Táo nhân 06g

Đương quy 12g

Phục thần 10g

Nhân sâm 03g

Long nhãn 12g

Viễn chí 06g

Bạch truật 12g

Mộc hương 08g

Cam thảo 06g

Hoàng kỳ 15g

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Tâm chủ thần minh, dựa vào huyết để nuôi dưỡng; tỳ chủ thống huyết, do khí mà nhiếp được huyết. Nếu tỳ hư bất vận, mất nguồn sinh hóa khí huyết làm cho tâm thần mất nuôi dưỡng, thần minh không yên gây nên hồi hộp trống ngực, mất ngủ hay quên hoặc không nhiếp được huyết, huyết thoát ra khỏi lòng mạch gây nên đại tiểu tiện ra máu, băng lậu, xuất huyết dưới da. Khí huyết bất túc, tứ chi và toàn bộ lục phủ ngũ tạng không được nuôi dưỡng đầy đủ nên thấy mệt mỏi, ăn uống kém, sắc mặt ám vàng, chất lưỡi nhạt, mạch vi nhược; âm huyết hao hư, dương khí mất đi sự hàm dưỡng, hư dương ngoại phù gây nên ra mồ hôi trộm. Nguyên nhân bệnh sinh của chứng này là tỳ hư bất vận, khí suy huyết thiếu, tâm thần mất đi sự nuôi dưỡng. Điều trị nên dùng pháp ích khí kiện tỳ để tăng cường thống nhiếp và vận hóa, bổ huyết dưỡng tâm để an thần.

Trong bài thuốc trên, nhân sâm có tác dụng “bổ ngũ tạng, an tinh thần, định hồn phách” để bổ khí sinh huyết, dưỡng tâm ích tỳ. Long nhãn bổ ích tâm tỳ, dưỡng huyết an thần. Hoàng kỳ, bạch truật giúp nhân sâm ích khí kiện tỳ. Đương quy giúp long nhãn dưỡng huyết bổ tâm. Phục thần, viễn chí, táo nhân để ninh tâm an thần. Mộc hương để lý khí tỉnh tỳ, phối hợp với thuốc bổ khí dưỡng huyết làm cho bổ mà không nê trệ ở vị. Cam thảo ích khí bổ trung, điều hòa các vị thuốc. Khi sắc thuốc cho thêm sinh khương, đại táo để điều hòa tỳ vị, giúp cho tăng cường tiêu hóa.

Bài thuốc chủ yếu dùng vị ngọt ấm ích khí, bổ trợ thêm các vị dưỡng huyết, an thần, lý khí. Tâm tỳ đồng trị nên trọng dụng bổ tỳ, khí huyết cùng bổ nên trọng dụng ích khí. Tỳ khí vượng thịnh thì huyết có nơi sinh, huyết có nơi nhiếp; huyết mạch sung túc thì thần có nơi trú ngụ, huyết có nơi để quy tụ. Cho nên bài thuốc này được gọi là bài “Quy tỳ thang”.

Nếu huyết hư trầm trọng thì gia thục địa 12g, a giao 08g.

Nếu phụ nữ thấy rong kinh kiêm đau lạnh bụng dưới thì gia ngải diệp 15g, bào khương 06g để ôn kinh chỉ huyết. Nếu rong kinh, miệng và họng khô, ra mồ hôi trộm thì gia sinh địa 12g, a giao 08g, tông lư thán 10g để thanh nhiệt chỉ huyết.

Nếu khí hư vệ dương bất cố gây tự ra mồ hôi thì nên tăng liều hoàng kỳ 30g và gia phòng phong 10g, phù tiểu mạch 12g để ích khí cố biểu cầm mồ hôi.

Nếu khí hư thấp thịnh gây đại tiện lỏng thì gia ích trí nhân 10g, trạch tả 15g, bạch biển đậu sao 12g, đương quy sao 12g.

Nếu sợ lạnh, chân tay lạnh, đau bụng âm ỉ (chứng dương hư) thì gia quế chi 12g, can khương 06g.

Nếu hồi hộp, tức ngực, mất ngủ thì gia bá tử nhân 12g, chu sa 03g.

Chú ý: bài thuốc trên không dùng trong âm hư huyết nhiệt gây xuất huyết.

3.5. Can thận âm hư

– Lâm sàng: hoa mắt chóng mặt lâu ngày không khỏi, thị lực giảm, hai mắt khô sáp, bứt rứt, khô miệng, ù tai, tinh thần uể oải, đau lưng, mỏi gối, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi mỏng, mạch huyền tế.

– Pháp điều trị: tư dưỡng can thận, dưỡng tâm trấn tinh.

– Bài thuốc: Tả quy hoàn.

Thục địa 240g

Sơn dược 120g

Quy bản 120g

Sơn thù 120g

Kỷ tử 120g

Thỏ ty tử 120g

Lộc giác giao 120g

Ngưu tất 120g

Các vị thuốc trên tán nhỏ, luyện mật ong làm viên hoàn, mỗi lần uống 09g, ngày 02 lần. Nếu giảm liều cân đối thì có thể sắc uống, ngày 01 thang.

Thận tàng tinh, chủ cốt sinh tủy thông lên não. Thận âm hư tổn, tinh tủy không được sung mãn, không được tàng trữ nên thấy đau đầu, chóng mặt, đau lưng, mỏi gối, di tinh, hoạt tiết. Âm hư không khống chế được dương, tinh khiếu không được nhu dưỡng nên thấy tự hãn đạo hãn. Chất lưỡi và mạch đều là các biểu hiện của âm hư nội nhiệt. Nguyên nhân bệnh sinh của chứng này là tinh tủy hao tổn, dương không được trấn tiềm, tinh không được tàng trữ. Pháp điều trị nên tư bổ thận âm, trấn tàng tinh tủy.

Trong bài thuốc trên, thục địa có tác dụng tư âm bổ thận, trấn tinh ích tủy. Quy bản, lộc giác giao có tác dụng bổ tinh tủy (trong đó quy bản có tính vị ngọt mặn lạnh để bổ can thận âm, vừa để tiềm dương; lộc giác có tính vị ngọt mặn ấm để ích tinh bổ huyết, vừa để ôn bổ thận dương), phối hợp với các vị bổ thận âm để đạt hiệu quả “dương trung cầu âm”. Sơn thù có tác dụng dưỡng can tư thận, sáp tinh liễm hãn. Sơn dược có tác dụng bổ tỳ ích âm, tư thận cố tinh. Kỷ tử có tác dụng bổ thận ích tinh, dưỡng can minh mục. Thỏ ty tử có tác dụng bình bổ âm dương, cố thận sáp tinh. Ngưu tất có tác dụng ích thận bổ can, cường cân tráng cốt.

Bài thuốc này được cấu tạo từ bài Lục vị địa hoàng hoàn bỏ đi ba vị tác dụng tả và gia thêm các vị bổ âm như quy bản, lộc giác để tăng cường tư bổ thận âm (chỉ bổ mà không tả), lại phối hợp với một số vị bổ dương để đạt hiệu quả “dương trung cầu âm”. Từ đó mà biến bài thuốc bình bổ thận âm thành bài trấn bổ chân âm, chỉ dùng các vị thuốc có tác dụng tăng cường tráng thủy. Bài thuốc tác dụng tráng thủy là chính để bồi nguyên âm cho thận thủy (thận âm bên tả), nên gọi là “Tả quy”.

Nếu âm hư sinh nội nhiệt gây nóng lòng bàn chân và tay, chất lưỡi hồng, mạch huyền tế sác thì gia miết giáp 08g, tri mẫu 12g, hoàng bá 12g, đan bì 12g để tư âm thanh nhiệt.

Nếu tâm thận bất giao gây mất ngủ, ngủ hay mê, hay quên thì gia a giao 10g, táo nhân 10g, bá tử nhân 12g để giao thông tâm thận, dưỡng tâm an thần.

Nếu phế thận âm hư thì gia sa sâm 12g, mạch môn 12g, ngọc trúc 12g để tư dưỡng phế thận.

Nếu thủy không hàm mộc, can dương thượng cang thì gia các vị thuốc có tác dụng thanh can, bình can, trấn can.

Nếu đại tiện táo bón thì bỏ thỏ ty tử và gia nhục thung dung 12g để nhuận tràng thông tiện. Nếu ra mồ hôi nhiều thì gia hoàng kỳ 15g, phù tiểu mạch 15g để ích khí cố biểu.

Chú ý: bài thuốc nhiều vị bổ âm và tính nê trệ, nên trường hợp tỳ vị hư gây đại tiện lỏng khi dùng phải thận trọng, muốn dùng lâu dài phải phối hợp với các vị thuốc có tác dụng kiện tỳ.

3.6. Huyết ứ trệ khiếu

– Lâm sàng: hoa mắt, chóng mặt, hay quên, hồi hộp, mất ngủ, tinh thần uể oải, tai ù, mặt môi ánh tím, chất lưỡi có ban điểm ứ huyết, mạch huyền sáp hoặc tế sáp.

– Pháp điều trị: khứ ứ sinh tân, thông khiếu hoạt lạc.

– Bài thuốc: Thông khiếu hoạt huyết thang.

Xích thược 12g

Xuyên khung 12g

Sinh khương 09g

Hồng hoa 08g

Đào nhân 06g

Hoàng tửu 01 cốc

Đại táo 05 quả

Hành già 03 cọng

Xạ hương 0,15g

Bài thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

Trong bài thuốc trên thì xích thược, xuyên khung, đào nhân, hồng hoa có tác dụng hoạt huyết hóa ứ, khứ ứ thông lạc. Xạ hương có tác dụng khai khiếu tán kết chỉ thống. Trong bài thuốc không có sinh khương có tác dụng tán kết thông dương. Hoàng tửu giúp cho huyết hành. Đại táo có tác dụng ích khí, điều hòa tính dược.

Nếu tinh thần uể oải, hụt hơi, tự ra mồ hôi thì gia hoàng kỳ 30 – 60g để bổ khí cố biểu, ích khí hành huyết.

Nếu sợ lạnh, chân và tay lạnh, gặp lạnh bệnh nặng thêm thì gia phụ tử 03g, quế chi 12g ôn kinh hoạt huyết.

Nếu thời tiết thay đổi bệnh nặng thêm, gặp gió lạnh bệnh lại phát thì gia xuyên khung 12g, phòng phong 12g, bạch chỉ 12g, kinh giới 15g, thiên ma 12g để lý khí khứ phong.

Bệnh viện Y học cổ truyền Hà Đông dùng bài thuốc HM2 điều trị bệnh nhân thiểu năng tuần hoàn não thấy có hiệu quả tốt:

Hoàng kỳ

30g

Chỉ xác

15g

Cát cánh

12g

Đương quy

20g

Bạch thược

15g

Sa nhân

08g

Xuyên khung

08g

Bình vôi

06g

Đan sâm

30g

Cam thảo

08g

Trạch tả

20g

Các vị thuốc trên sắc uống, ngày 01 thang.

4. BIỆN PHÁP KHÔNG DÙNG THUỐC

4.1. Châm cứu

– Thái xung, Hành gian, Huyền chung.

– Nội quan, Thần môn.

– Tam âm giao, Túc tam lý, Huyết hải, Lương khâu, Can du, Tâm du.

– Trung quản, Cưu vĩ, Tỳ du, Vị du.

– Phong trì, Kiên tỉnh, Kiên ngung, Khúc trì, Hợp cốc.

– Toản trúc, Tình minh, Thái dương, Bách hội, Đầu duy, Xuất cốc.

Các huyệt trên chọn lựa dùng cho phù hợp, phối hợp châm bổ và tả đơn giản, có thể kết hợp với cứu hoặc điện châm.

4.2. Xoa bóp

Các động tác xát, xoa, lăn, chặt, vê, vờn, bấm, phân, hợp.

5. KẾT LUẬN

– Nguyên nhân gây thiểu năng tuần hoàn não phần lớn do tình chí, ẩm thực, kết hợp với mất huyết, ngoại thương, lao động quá sức gây nên. Vị trí bệnh tại thanh khiếu, do não tủy không được nuôi dưỡng và đàm hỏa thượng nghịch gây nên.

– Cơ chế bệnh sinh có quan hệ mật thiết đến ba tạng can, tỳ, thận.

– Bệnh xuất hiện thường là hư chứng, thể thực chứng gặp trong thời kỳ phát bệnh, thể hư chứng thường gặp ở thời kỳ lui bệnh và bệnh tình nhẹ.

– Trong quá trình điều trị nên chú ý gia giảm các vị thuốc cho phù hợp và kết hợp với châm cứu, xoa bóp, khí công, dưỡng sinh để tăng cường hiệu quả điều trị.

PGS.TS. Trần Quốc Bảo

Chủ nhiệm Bm-K Y học cổ truyền